Tại rừng cao su của các huyện Quỳnh Nhai, Thuận Châu (Sơn La) hiện nay, các cây đang dần khép tán phủ xanh dần những đồi trọc của 10 năm trước. Đường kính các cây đã hơn gang tay, lẽ ra từ 2-3 năm nay đã phải được khai thác mủ. Tuy nhiên, theo người dân, mới chỉ có một phần diện tích cao su được thu mủ và người dân góp đất được chia lợi ích. Phần nhiều diện tích còn lại vẫn chờ đợi. 

Cây cao su nhà ông Quàng Văn Dính trồng sau 10 năm vẫn chưa từng được khai thác mủ.

Xã Tông Lạnh (huyện Thuận Châu) từ năm 2008 -2009 đã đi đầu ở Sơn La triển khai mô hình góp đất trồng cao su. 12 bản với 400 hộ dân đã góp 1.600 ha đất trồng cao su với Công ty Cổ phần (CP) Cao su Sơn La. Đến nay, khoảng 600 ha cao su đã quá thời gian cạo mủ nhưng công ty vẫn chưa khai thác.

Ông Quàng Văn Dính, trưởng bản Thẳm A, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu (Sơn La) chỉ tay về đồi cao su bạt ngàn của gia đình, than thở: “Trước kia, khi về vận động người dân góp đất trồng, “họ” nói chỉ 7 năm là có sản phẩm mủ cao su để bán, dân có tiền, thoát nghèo. Bản có 110 hộ, sau khi góp đất trồng cao su thì chỉ còn 12 ha ruộng trồng lúa. Sao đủ ăn. Dân bản bây giờ sốt ruột lắm”.

Các hộ dân ở bản này đã góp 43 ha đất vào Công ty CP Cao su Sơn La. Các hộ góp đất được giao khoán trồng, chăm sóc. Cây cao su bén rễ từ năm 2008, theo chu kỳ phát triển thì 6-7 năm sau cây sẽ cho mủ, nhưng đến nay đã ngót 10 năm mà vườn cao su vẫn “ngậm miệng”.

 Dưới tán cao su, nhiều cây dại, thực bì ngập đầu, trong khi có cây cao su mới chỉ lớn cỡ bắp tay. “Nhà báo về hỏi về chuyện cao su nên tôi dẫn lên đây, mới biết vườn nhà mình đang thế nào. Đã từ lâu lắm tôi chẳng lên đây. Tất tật công việc chăm sóc cao su đều do phía Nông trường Châu Thuận tổ chức làm, người dân chẳng có việc gì để lên.” – ông Quàng Văn Dính nói.

Tâm tư của trưởng bản Quàng Văn Dính:

Ngay cả những hộ dân có cao su được thu hoạch, nỗi lo vẫn còn nguyên. Nhiều vườn cao su đã quá thời gian cho mủ 1 - 2 năm, nhưng công ty chỉ cạo thử với diện tích nhỏ. Theo tổng hợp ở bản Thẳm B (xã Tông Lạnh),  cả 2 năm 2017 và 2018, mới chỉ có hơn 6,4 ha cao su được đưa vào khai thác, chiếm khoảng 10% tổng diện tích đất cả bản đã góp.

Theo danh sách các hộ dân trong bản Thẳm B được chi trả tiền khai thác mủ cao su trong 2 năm 2017 - 2018, hộ góp đất nhiều nhất như hộ ông Lò Văn Triệu là 2 ha, nhưng khai thác mủ trong 2 năm 2017 - 2018 mới chỉ đạt 0,78 ha, với tổng số tiền được chi trả hơn 600.000 đồng; hộ ông Lò Văn Diệu, diện tích đất góp 1,8 ha nhưng năm 2018 mới chỉ khai thác mủ  0,05 ha, với số tiền được chi trả chỉ 37.000 đồng... Những hộ khác, có diện tích đất góp từ 0,2 ha đến 1 ha/hộ, thì chỉ nhận được  100.000 – 200.000 đồng/hộ, cá biệt có những hộ chỉ mới được chi trả 2.000 – 3.000 đồng/hộ.

“Gia đình tôi thuộc diện có cây cao su được chăm sóc tốt, nên trong tổng số đất góp 0,3 ha, đến năm 2018 đã cho khai thác toàn bộ diện tích. Thế nhưng số tiền được hưởng từ sản phẩm cả hai năm 2017 - 2018 mới chỉ được 235.000 đồng. Đầu năm 2019, khi được trả tiền sản phẩm, nhiều hộ phải đi xe máy 3 - 4 km lên đến điểm nhận tiền, mà số tiền chỉ là vài chục nghìn đồng nên có hộ chẳng buồn tới nhận” – anh Lò Văn Hòa, trưởng bản Thẳm B chán nản.

Hộ ông Cà Văn Bọm, dân tộc Thái ở bản Ka, xã Chiềng Khoang, huyện Quỳnh Nhai (Sơn La) góp 1 ha đất để trồng cao su. Làm công nhân từ năm 2013, hiện nay ngày công và lương giảm, mỗi tháng  nhà ông phải vay mượn 200.000 đồng để đóng bảo hiểm. Gia đình chỉ còn 500 m2 đất trồng lúa, mỗi năm thu được 5 tạ thóc, nhà có 5 khẩu không thể đủ ăn, hàng ngày vợ chồng ông phải đi làm thuê, được trả công 60.000 đồng. 

Đến Sơn La những ngày này, khi mùa thu hoạch mủ (tháng 4-5) đã chớm, càng cảm nhận được tâm tư của bà con. Những bản làng 10 năm nỗ lực với cao su xứng đáng có được cuộc sống ổn định, kinh tế vững vàng trên đồi đất của mình.

Sơn La là một trong 3 tỉnh Tây Bắc có diện tích trồng cao su lớn nhất hiện nay (hơn 6.000 ha), cùng với Lai Châu (gần 12.700 ha) và Điện Biên (gần 5.000 ha), theo thống kê năm 2017.

Ở thời điểm hiện tại, cao su là cây hàng hóa lâu năm có diện tích lớn nhất trong tất cả các loại cây hàng hóa lâu năm của Việt Nam. Thống kê tổng diện tích cây cao su trên toàn quốc năm 2017 đạt 969.700 ha, và diện tích cây cao su vẫn trên đà tăng, bình quân khoảng trên 27.700 ha/năm.  

Nhìn lại quá khứ, khi giá mủ cao su trên thị trường thế giới tăng cao vào cuối những năm 2000 (từ 2008-2009), các diện tích cao su của Việt Nam được mở rộng nhanh chóng. Sơn La cùng 6 tỉnh miền núi phía Bắc bao gồm Điện Biên, Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Phú Thọ và Yên Bái dù không phải là địa bàn truyền thống trồng cao su nhưng các diện tích cao su cũng bắt đầu được phát triển, với tổng diện tích đã là trên 30.300 ha.

Phát triển và mở rộng diện tích trồng cao su ở Tây Bắc hầu hết được thực hiện thông qua mô hình liên kết (thường được gọi là mô hình góp đất trồng cao su) giữa công ty cao su - là công ty con của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam và các hộ dân. Trong mô hình này, các hộ dân góp đất nương rẫy, được Chính phủ giao sử dụng ổn định lâu dài, trước đó hộ được canh tác các loại cây nông nghiệp ngắn ngày như ngô, sắn, mía, với Công ty Cao su để phát triển cao su.

Hợp đồng góp đất phát triển cao su được ký kết giữa công ty và hộ. Hộ góp 1 ha đất trở lên sẽ được Công ty nhận 1 lao động vào làm việc tại Công ty và được trả lương. Đất mà hộ góp vào mô hình được được tính là nguồn vốn của hộ góp vào liên kết, với mỗi ha đất góp được định giá là 10 triệu đồng, tương đương 10.000 cổ phiếu, hay 10% trong tổng đầu tư cho mỗi ha tính đến thời điểm cây cao su bắt đầu cho mủ (khoảng 6-7 năm từ lúc trồng). Hộ sẽ được hưởng lợi tức từ việc khai thác mủ tương đương với tỷ lệ góp vốn của hộ (10%).

Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 990/QĐ-TTg-QĐ ngày 18/6, chính thức cho phép việc thực hiện thí điểm mô hình góp đất trồng cao su. Quyết định nêu rõ các điều kiện và vai trò của các bên tham gia góp vốn vào mô hình, quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia. Trong đó, cần lưu ý, Điều 10 của Quyết định yêu cầu “hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc thực hiện thí điểm cho hộ nông dân góp vốn; tổng kết đánh giá kết thúc giai đoạn thực hiện thí điểm, trình Thủ tướng Chính phủ vào quý IV năm 2018.”

Hiện nay, cao su vùng Tây Bắc tạm dừng ở mức gần 25 ngàn ha, bằng 50% mức quy hoạch đến năm 2020 của Bộ NN&PTNT. Đã có những hộ dân bắt đầu có thu nhập từ cao su. Tuy nhiên, các địa phương đã và đang giải thể ban chỉ đạo, chuyển chức năng tham mưu và quản lý nhà nước thường xuyên về phát triển cây cao su sang Sở NN&PTNT.

Số liệu thống kê của Bộ NN&PTNT cho thấy tính đến hết tháng 12 năm 2012, tổng số đã có trên 18.000 hộ dân tại Sơn La, Điện Biên và Lai Châu đã góp đất vào liên doanh với công ty cao su, với tổng số khoảng 23.000 ha đất canh tác nương rẫy từ các hộ.

Biểu đồ Tốc độ mở rộng diện tích cao su của 3 tỉnh Tây Bắc:

Gắn kết với người dân với tư cách là đơn vị ký hợp đồng trực tiếp nhận đất là các công ty con của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam. Các công ty con này là đơn vị trực tiếp nhận thành viên của các hộ góp đất vào làm công nhân. Công nhân của công ty được trả lương, bảo hiểm giống như công nhân chính thức của công ty. Với quy định là chỉ có những hộ có diện tích đất góp từ 1 ha trở lên mới có thể cử 1 thành viên làm công nhân cho công ty, chỉ có khoảng 36,5% số hộ góp đất với Công ty CP Cao su Sơn La có thành viên của gia đình mình được công ty tuyển chọn.

Theo báo cáo thực hiện dự án phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La của Sở NN&PTNT tỉnh Sơn La gửi Liên đoàn Lao động tỉnh Sơn La tháng 9/2018, Công ty CP Cao su Sơn La đã đầu tư trên 1.231 tỷ đồng để triển khai thực hiện Dự án đầu tư phát triển cây cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La. Trong đó, chi trả chi phí nhân công cho công nhân là 474,25 tỷ đồng, đóng bảo hiểm cho công nhân là 77,55 tỷ đồng; hỗ trợ các bệnh nhân nghèo, xây dựng nhà trẻ, mẫu giáo, cho người lao động vay vốn chăn nuôi... là 29 tỷ đồng.

Có nhiều lý do khiến những hộ đồng bào góp đất trồng cao su phải đối mặt với các khó khăn về sinh kế.  Công ty CP Cao su Sơn La, đơn vị đối tác của người dân đã đưa ra những giải thích, nhưng dường như như vậy là chưa đủ.

Khi bắt đầu triển khai mô hình, Công ty CP Cao su Sơn La nói với người dân rằng cây cao su sẽ chính thức cho mủ sau khi trồng khoảng 6-7 năm. Đến lúc đó, người dân góp đất sẽ được chia sẻ lợi ích theo tỉ lệ phần trăm mà hộ góp vốn vào mô hình thông qua góp quyền sử dụng đất của mình.

Tuy nhiên, từ Sơn La, năm 2016, có 146,42 ha cao su bắt đầu được đưa vào khai thác, đạt 203 tấn mủ cao su. Năm 2017, diện tích cao su khai thác là 914,02 ha, sản lượng mủ đông đạt 1.314 tấn. Như vậy, với tổng diện tích trồng cao su trên toàn tỉnh năm 2017 là 6.000 ha thì diện tích đã khai thác mủ cao su sau 10 năm chỉ chiếm từ 10- 15%, con số thấp hơn nhiều so với dự kiến lúc đầu khi phát triển mô hình.

 Nhiều hộ dân chỉ nhận được vài chục tới vài trăm ngàn đồng mỗi năm tiền chia sản phẩm.

Một số diện tích trồng cây cao su trên địa bàn tỉnh đã đến thời kỳ thu hoạch, tuy nhiên Nhà máy chế biến mủ cao su Sơn La thuộc Công ty CP Cao su Sơn La phải đến tháng 12/2018 mới được đưa vào hoạt động thử nghiệm.

Ông Hồ Anh Đức, Tổng giám đốc Công ty CP Cao su Sơn La cho biết, trong tổng số diện tích rừng cao su hiện nay, diện tích tái canh chỉ ở khoảng 10%.  Vẫn có những diện tích cây trồng không phát triển tốt, nên sẽ phải cạo mủ sau. Công ty CP Cao su Sơn La đang phấn đấu đến hết năm 2019, sẽ đưa vào khai thác khoảng 3.400 ha (tương đương 60% diện tích cao su trên địa bàn).

Và nguyên nhân chính khiến cao su Tây Bắc chưa đem lại hiệu quả về kinh tế cho người dân là tình trạng xuống dốc rất nhanh của giá mủ cao su trên thị trường thế giới.

 Biểu đồ Giá mủ cao su RSS3 qua các năm, từ 2001-2016:

Ông Hồ Anh Đức cho biết, gần đây, giá mủ cao su trên thị trường khu vực và thế giới liên tục giảm sâu, hiện chỉ còn 30-50% so với mức bình quân trước đây. Cụ thể, giá mủ cao su vào đỉnh điểm (giai đoạn cuối năm 2010, đầu năm 2011) là 105 triệu đồng/tấn. Vậy nhưng từ năm 2012 đến nay, giá mủ cao su chỉ trung bình ở mức 32 triệu đồng/tấn. Với việc xuất khẩu tới 80% cao su thiên nhiên, sự sụt giảm giá cao su thế giới là đòn mạnh vào sự phát triển của cao su Việt Nam.

Người dân tại bản Thẳm A, xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu phản ánh: Mặc dù người dân góp đất với Công ty để trồng cao su từ năm 2007-2008, nhưng công ty hoàn toàn không có hợp đồng với người dân cho đến gần đây. Trong chu kỳ 10 năm dân góp đất trồng cao su với công ty, ràng buộc duy nhất chỉ là bằng ”miệng”. Quan hệ kinh tế theo hình thức “hợp đồng miệng” này vô cùng rủi ro cho cả hai phía. Theo người dân, bắt đầu từ khoảng tháng 6/2018, người của Công ty mới đi xuống một số bản, triệu tập các hộ ra nhà văn hóa thôn, đọc danh sách các hộ và yêu cầu ký 3 bản hợp đồng, có chứng nhận của xã. Một số hộ gia đình còn chưa kịp đọc rõ các nội dung trong hợp đồng là gì thì Công ty CP Cao su Sơn La đã mang cả 3 bản hợp đồng này đi.

Theo kế hoạch ký kết hợp đồng giữa Công ty CP Cao su Sơn La với các hộ gia đình, cá nhân góp đất trồng cao su,  hết năm 2018 là phải ký được 1.983 hợp đồng góp đất. Tuy nhiên, đây chỉ là con số rất nhỏ so với số lượng hơn 18.000 hộ dân Sơn La góp đất vào liên doanh với công ty cao su.

Những cánh rừng 10 năm chưa được khai mủ:

Anh Lò Văn Toàn bản Thẳm B (xã Tông Lạnh, Thuận Châu, Sơn La) lo lắng: “Người dân không được biết số lô, thửa, tỷ lệ phần trăm được chia khi thu hoạch mủ. Như vậy, dù người dân đã góp đất trồng cao su nhưng lại chưa có sự ràng buộc pháp lý với công ty. Tất cả cam kết của công ty cao su vẫn chỉ là thỏa thuận miệng”.

Chưa dừng ở đó, trong 3 năm đầu trồng cao su, khi cây chưa khép tán, các hộ góp đất được Công ty cho trồng xen các loại cây trồng ngắn ngày như sắn, ngô, đậu vào các diện tích cao su. Tuy nhiên từ sau năm thứ 3 trở đi, nghĩa là từ năm 2011 cho tới nay, khi cây cao su đã khép tán, Công ty không cho các hộ được trồng xen. Lợi ích từ các cây trồng xen mất hẳn trong nhiều năm khiến nỗi lo về sinh kế trở nên thường trực.

Khó khăn về kinh tế khiến người dân càng thêm thắc mắc về cơ chế ăn chia lợi nhuận ở những diện tích cao su đã cho khai thác mủ. Đặc biệt khi người dân nhận thu nhập quá thấp từ việc khai thác mủ tại xã Tông Lệnh như đã đề cập (một số hộ chỉ được vài nghìn, hộ nhiều nhất được vài trăm nghìn đồng).

Trước những thắc mắc của người dân, ông Hồ Anh Đức, Tổng giám đốc Công ty CP Cao su Sơn La, đưa ra lý giải: Phương án phân chia 10% sản phẩm khai thác mủ đã được áp dụng kịp thời kể từ khi cao su được đưa vào cạo mủ và dự kiến tiếp tục triển khai cho giai đoạn 2017-2021. Đây là phương án nhằm tạo thu nhập ngay cho người lao động để khắc phục khó khăn của phương án góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp để làm cổ đông và nhận 10% lợi tức. Trước đó, với phương án cũ, nếu Công ty CP Cao su Sơn La không có lợi nhuận trong những năm đầu khi cây cao su cho mủ (do doanh thu hạch toán vào chi phí sản xuất của các năm kiến thiết cơ bản) thì các hộ dân góp vốn bằng quyền sử dụng đất cũng sẽ không được chia cổ tức. Như vậy, với cách phân chia mới, đại diện Công ty CP Cao su Sơn La khẳng định khu vực rừng cao su cứ được cạo mủ là người dân có thu nhập.

Ông Hồ Anh Đức cho biết thêm, qua đánh giá ban đầu, cây cao su Sơn La khai thác cho mủ khá tốt, năng suất đạt khoảng 0,5-0,6 tấn/ha trong năm khai thác đầu tiên và sẽ tăng lên trong các năm khai thác tiếp theo, chất lượng mủ đáp ứng yêu cầu kỹ thuật. Do đây chỉ mới là thời điểm mở cạo, năng suất vườn cây còn thấp nên bước đầu Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam vẫn đánh giá về những diện tích khai thác này đạt yêu cầu chung về sản lượng cây cao su khu vực miền núi phía Bắc.

“Với đặc thù của cây cao su, trong 3 năm đầu mới khai thác, sản lượng chưa có nhiều. Sau khoảng 5 năm sản lượng sẽ tăng thêm và đến giai đoạn 14-15 năm sau khi bắt đầu khai thác, cao su mới cho ra sản lượng cao đỉnh điểm. Hy vọng từ năm khai thác thứ 4 trở đi, khi sản lượng nâng cao và giá thị trường tăng cao, người dân sẽ có thêm nhiều thu nhập từ cây cao su.” -  ông Hồ Anh Đức chia sẻ.

Bên cạnh đó, cao su là cây công nghiệp dài ngày nên hiệu quả kinh tế phải tính trên cả chu kỳ và xem xét hiệu quả tổng hợp của loài cây "đa mục đích".

Nói về cây cao su trên đất Sơn La, ông Lò Văn Sâm, Chủ tịch UBND xã Tông Lạnh, huyện Thuận Châu (Sơn La), cho biết: Cái được lớn nhất sau 10 năm triển khai trồng cây cao su, đó là môi trường được cải thiện, các mó nước (mạch nước ngầm) trong xã lúc nào cũng đầy ắp, chứ không cạn kiệt như xưa. Cao su tới đâu, hạ tầng đường sá, trường mầm non, nhà văn hóa đi tới đó, các hoạt động từ thiện, cho vay vốn hỗ trợ người dân trồng cao su cũng được triển khai thường xuyên...

Như vậy, cái lợi mà cao su đem lại trên những mảnh đất trống, đất cằn Sơn La vẫn được xem là một bài toán đường dài và chưa tính toán ra con số thực tế. Còn trước mắt, do cao su chưa đem lại nguồn thu, nên thu nhập và sinh kế cho người dân góp đất vẫn là một vấn đề đau đầu. Cũng chính vì lý do đó, mọi lý giải đưa ra đều như chưa đi trúng nút thắt cốt lõi, và những kế hoạch tương lai càng trở nên xa vời.

Giá mủ cao su trên thị trường thế giới xuống thấp trong khi nguồn nguyên liệu đầu vào và một số chính sách như mức lương tối thiểu, chính sách cho người lao động ngày càng tăng, dẫn đến việc Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Công ty CP Cao su Sơn La không đầu tư trồng mới, chỉ trồng dặm diện tích cao su đã trồng. Thiếu việc làm lại chỉ được trả lương theo sản lượng khai thác và công tác chăm sóc trực tiếp (theo quy định chung của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam trên toàn quốc), không đủ điều kiện đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định, nhiều công nhân của Công ty xin nghỉ việc để kiếm việc làm bên ngoài.

Theo thống kê của Tổ chức nghiên cứu rừng Forest Trends, mỗi công ty cao su sử dụng một lượng lao động rất lớn, khoảng 2.140 người. Chi phí nhân công là loại chi phí lớn nhất trong các loại chi phí của các công ty Cao su. Việc không khai thác diện rộng mủ cao su khiến một lực lượng lớn lao động từng ký hợp đồng với công ty cao su thiếu việc làm buộc phải bỏ việc để tìm kiếm việc làm thêm ở bên ngoài.

 Sau 10 năm triển khai dự án phát triển, dòng nhựa trắng của cây cao su ở các tỉnh phía Bắc vẫn chưa được khơi thông, các nhà máy chế biến chưa thể hoạt động hết công suất.

Ông Cầm Văn Thắng, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Mai Sơn, cho biết thực tế: “Mấy năm làm công nhân không có thu nhập nên nhiều người bỏ việc”.

Trong khi đó, ông Hồ Anh Đức, Tổng giám đốc Công ty CP Cao su Sơn La, cũng thừa nhận: Trong những năm đầu tiên, số lượng người dân góp đất đi làm công nhân rất nhiều, nhưng dần dần, do ít việc, một số người bỏ đi, làm việc khác. Hiện, số công nhân được ký hợp đồng chính thức khoảng 2.500 người.

“Cao su khi đã khép tán, công việc rất ít, không mất công chăm sóc nhiều nên một số hộ chuyển đổi công việc khác. Thời điểm này, cao su bắt đầu đưa vào khai thác, công ty lại gọi những người đó về làm công nhân. Riêng công nhân khai thác mủ được trả lương theo sản lượng chứ không cố định”, ông Hồ Anh Đức nói.

Năm nay, Công ty CP Cao su Sơn La dự tính đưa thêm 1.200 ha vào khai thác nên nhu cầu việc làm rất cao nhưng nhiều người có trong danh sách công nhân viện nhiều lý do chưa chịu đi làm. Đặc biệt, khu vực Tông Lạnh và Nông trường Châu Sơn đang thiếu công nhân khai thác.

Báo cáo về tình hình triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển cây cao su của UBND huyện Thuận Châu lại chỉ ra tới 5 nguyên nhân dẫn đến việc công nhân cao su bỏ việc. Trong đó có nguyên nhân diện tích tham gia góp đất trồng cây cao su của các hộ dân nhìn chung ít, manh mún, phải từ hai đến ba hộ dồn, góp vào mới đủ 1 ha để được tuyển 1 công nhân. Khi UBND huyện phê duyệt phương án, tiến hành chi trả chính sách hỗ trợ cho các hộ không tham gia làm công nhân theo Nghị quyết số 363/2011/NQ-HĐND tỉnh, các hộ đã dồn đất cho nhau để đủ 1 ha đã tham gia công nhân đề nghị, không tiếp tục dồn đất để tuyển công nhân mà chia ra để được hưởng chính sách hỗ trợ. Từ đó, người đã tham gia làm công nhân (kể cả công nhân chính thức) không còn đủ diện tích để tham gia làm công nhân nữa, buộc phải trả lại đất cho chủ sử dụng đất và diện tích còn lại đề nghị hỗ trợ, dẫn tới tình trạng công nhân xin nghỉ đồng loạt đề nghị được hỗ trợ vốn sản xuất.

Tuy nhiên, theo anh Lò Văn Hòa, Trưởng bản Thẳm B, xã Tông Lạnh, một trong những lý do người dân không mặn mà là thu nhập từ nghề khai thác mủ cao su không cao, lại làm đêm hôm vất vả. Công nhân thiếu việc làm, thu nhập không chỉ thấp mà còn không ổn định nên các lao động trong bản đều đã nghỉ làm công nhân để chuyển sang làm thuê mướn theo thời vụ hoặc đi làm xa để có thu nhập cao hơn.

Theo báo cáo Mô hình liên kết trồng cao su tại Sơn La - Thị trường và Sinh kế hộ gia đình năm 2016 của Tổ chức nghiên cứu rừng Forest Trend, từ năm 2012 trở về trước, thu nhập của công nhân Công ty Cổ phần Cao su Sơn La giao động từ 1,5 đến 2 triệu đồng/tháng, cá biệt có công nhân được 3 triệu đồng/ tháng. Nhưng đến năm 2016, mỗi tháng công nhân chỉ có vài ngày công nên lương trung bình chỉ được được 351.000 đồng/tháng. Mức lương hiện tại của công nhân cao su đã giảm 83% so với trước đây.

Khó khăn của cao su vùng Tây Bắc đều là những điều nhìn thấy trước, được các nhà khoa học cảnh báo trong giai đoạn cao su phát triển “nóng” tại Tây Bắc. Đó là những khó khăn đến từ những nguyên nhân khách quan như khí hậu, thổ nhưỡng...

Sở NN&PTNT tỉnh Sơn La cho biết, diện tích trồng cao su ở Sơn La chủ yếu là đất trống đồi núi trọc, có độ dốc khá lớn, độ cao tuyệt đối từ 400-600m. Thậm chí để đảm bảo yếu tố liền vùng, liền khoảnh, nhiều diện tích đồi có độ dốc tới 30 độ, độ cao trên 600m vẫn được đưa vào trồng cao su. Thêm vào đó, đất đai khu vực trồng cao su chủ yếu là đất dốc, từng canh tác cây ngắn ngày như ngô, sắn nhiều năm nên đã bị xói mòn, rửa trôi. Vì vậy phần lớn diện tích có phần đất mỏng, dinh dưỡng thấp, phải đầu tư thâm canh cùng biện pháp chăm sóc đặc biệt.

Về mặt khí hậu, cây cao su Sơn La chịu ảnh hưởng tiêu cực của hai kiểu khí hậu trong năm bao gồm giá rét từ tháng 1-3, nắng nóng, khô hạn từ tháng 3-5, ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây cao su. Một số diện tích trồng cao su sinh trưởng chậm do trong những năm đầu trồng cây cao su bằng các loại giống cũ chịu rét kém với diện tích lớn khiến cây bị ảnh hưởng về tốc độ sinh trưởng.

Thêm vào đó, cho đến nay, phát triển cao su đã bước sang giai đoạn mới, nhiều diện tích cao su đã khép tán, cho sản phẩm mủ cao su. Tuy nhiên, các bộ, ngành Trung ương chưa có sự tổng kết, đánh giá về Chương trình phát triển cây cao su tại các tỉnh miền Bắc, dẫn đến lúng túng trong việc khắc phục các vấn đề về giống, quy trình canh tác, thu hoạch và hỗ trợ công nhân trồng cao su.

Toàn ngành cao su đã đạt giá trị xuất khẩu khoảng 6,2 tỷ USD, tăng trên 27,2% so với kim ngạch năm 2016. Tuy vậy, từ thực tế giá cao su thế giới, dự báo thị trường từ nhiều nghiên cứu của Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA) đã chỉ ra rằng đến 2030, giá cao su thiên nhiên trên thị trường thế giới sẽ khó có thể hồi phục trở lại như mức năm 2011. Trong bối cảnh “cung lớn hơn cầu” do mở rộng sản xuất quá nhanh vào giai đoạn giá mủ cao su cao, các doanh nghiệp và đặc biệt là các hộ trồng cao su sẽ tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn về thị trường trong thời gian tới. 

Đại diện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Sơn La cho biết, trước tình hình giá mủ cao su giảm, các địa phương chủ trương không trồng diện tích mới để tập trung chăm sóc, bảo vệ vườn cây cũ và tiến hành cạo mủ.

Người dân vẫn chờ những quyết sách hợp lý của các cấp có thẩm quyền để đảm bảo ổn định cuộc sống.

Trao đổi với phóng viên, GS.TSKH Nguyễn Ngọc Lung, Viện trưởng Viện Quản lý rừng bền vững Việt Nam khẳng định, cần bàn thảo những quyết sách rõ ràng và nhanh chóng để đảm bảo lâu dài cho đời sống của đồng bào Tây Bắc: “Sau 10 năm, lượng mủ không đạt 1 tấn/ha thì đã nhìn thấy loại cây này không đạt về lợi ích kinh tế ở Tây Bắc. Có thể nói, với các điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng Sơn La, nhiều diện tích rừng cao su hiện nay chỉ có thể coi là rừng phòng hộ, giữ đất chứ không thể khai thác mủ thương mại. Đã đến lúc cần có những bàn thảo thật cụ thể giữa địa phương và người dân với sự đóng góp của các nhà khoa học để tìm ra hướng giải quyết những khó khăn trong đời sống cho người dân và định hướng an sinh xã hội lâu dài”.

Trên cơ sở những khảo sát thực tế mô hình người dân góp đất trồng cao su trong 10 năm cao su “về với” Tây Bắc, ông Tô Xuân Phúc, chuyên gia nghiên cứu rừng của Tổ chức Forest Trends tại Việt Nam cũng kiến nghị: Cần có đánh giá toàn diện về mô hình góp đất trồng cao su hiện nay trên cả ba phương diện kinh tế, xã hội và môi trường như yêu cầu của Thủ tướng trong Quyết định 990/QĐ-TTg. Các kết quả đánh giá này nên được thực hiện liên tục, với kết quả nên được sử dụng bởi các cơ quan quản lý để làm nền cho việc xác định chiến lược giúp các hộ giảm thiểu rủi ro mà thị trường có thể đem lại.

Ông Tô Xuân Phúc trăn trở: “Thị trường thế giới hiện nay “cung lớn hơn cầu” khiến mức giá xuất khẩu khó có thể tăng trở lại cho đến 2030. Với thông tin này, chúng ta không thể kỳ vọng mô hình góp đất trồng cao su sẽ có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các bên tham gia mô hình. Điều này đòi hỏi Chính quyền từ Trung ương đến địa phương, Công ty và Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam cần có những giải pháp cấp bách để giảm khó khăn cho bà con tham gia mô hình. Các cơ quan quản lý cần rà soát toàn bộ hiện trạng sử dụng đất trong mô hình cũng như nguồn đất canh tác còn lại của các hộ. Kết quả của rà soát sẽ giúp cho việc xác định các vấn đề có thể là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến các mâu thuẫn về đất đai và bất ổn xã hội trong tương lai để từ đó có giải pháp tháo gỡ. Đối thoại mở với sự tham gia của cả công ty, người dân và chính quyền địa phương cần được tiến hành, từ đó đưa ra các hướng, các giải pháp với sự đồng thuận của tất cả các bên”.

Cũng đồng tình với ý kiến phải tìm hướng giải quyết ngay để ổn định đời sống người dân, GS. Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài Nguyên - Môi trường  chia sẻ: Cách duy nhất hiện nay có thể tháo gỡ là hai bên cùng nhau điều chỉnh hợp đồng dưới sự giám sát của chính quyền. Trước đây, người dân đã tự nguyện góp đất để trồng cao su, giờ không đạt kết quả như mong muốn thì hai bên phải ngồi lại với nhau để bàn cách xử lý. Chính quyền tham gia cùng công ty cao su đối thoại trực tiếp với người dân để khắc phục, sao cho cuộc sống của người dân được đảm bảo tốt nhất.

Trong khi đó, Báo cáo “Ngành cao su Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững” - sản phẩm hợp tác nghiên cứu của Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA), Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFORES), Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh (HAWA), Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Bình Định (FPA Bình Định) và Tổ chức Forest Trends - cũng đưa ra các giải pháp về khía cạnh chính sách để ngành cao su phát triển bền vững trong hội nhập, vượt qua những khó khăn về thị trường. Trong đó có hai giải pháp là: Xây dựng thương hiệu ngành cao su Việt Nam, thông qua Nhãn hiệu chứng nhận “Cao su Việt Nam” của Hiệp hội Cao su Việt Nam; Thực hiện cơ chế giám sát chặt chẽ để đảm bảo việc kiểm định mang tính chất độc lập và đảm bảo chất lượng cho các sản phẩm cung ra thị trường.

Cùng với đó, ngành cao su cũng cần có những bước chuyển dịch hiệu quả để tái cơ cấu chuỗi cung, từ việc tập trung vào xuất khẩu các sản phẩm thô sang các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, và quan tâm phát triển thị trường nội địa. Thực hiện các bước này sẽ góp phần giảm rủi ro cho ngành, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập thị trường, thúc đẩy ngành cao su phát triển bền vững trong tương lai.

Có thể thấy, cho đến lúc này, khi chưa có một nghiên cứu thật cụ thể về tính bền vững của cây cao su tại Tây Bắc như yêu cầu của Thủ tướng trong Quyết định 990/QĐ-TTg, rất khó có thể đưa ra hướng giải quyết rốt ráo. Tuy vậy, việc cùng tìm ra cách khắc phục những khó khăn hiện đang gặp phải của người dân để ổn định an sinh, đản bảo cuộc sống của đồng bào dân tộc là việc phải làm ngay, không thể để kéo dài tình trạng người dân Tây Bắc mỏi mòn chờ dòng “vàng trắng” khơi nguồn.

Bài, ảnh, clip: Lê Sơn
Trình bày: Minh Đăng - Minh Tuệ - Minh Thy

24/04/2019 12:11